Trăng sáng cố hương – Lại Nhĩ [Chương 3.6]

Nói rồi, Hà Nhân quay sang Khương Hằng, nói: “Tiểu huynh đệ, câu của Bách Lý huynh tuy không phải, nhưng cũng không hề khoác lác. Bình tâm mà luận, các bang phái trên giang hồ có hàng trăm hàng ngàn, Tùy gia thương tuy sở trường về thương thuật, nhưng luận võ công điển tịch và thực lực bang phái, chẳng qua cũng chỉ ở mức hạng ba, nếu không đâu chỉ dừng lại ở mấy chục đệ tử, bị triều đình tiêu diệt dễ dàng thế. Nhưng, chính việc Tùy gia thương diệt vong đã kích thích tinh thần chiến đấu của hàng ngàn hàng vạn võ nhân giang hồ, cũng khiến võ nhân chúng ta nhận ra rằng nếu tự chiến đấu một mình thì sẽ bị đánh tan từng người một, cho nên Thương Thiên mới theo đó được sinh ra.”

“Thương Thiên là gì?” Vân Hy nghi hoặc hỏi.

Hà Nhân nghiêm mặt nói: “Thương Thiên là liên minh các võ nhân nổi lên gần năm nay, nhằm đối phó lại Thái Bình Ước. Các ngươi cũng biết đấy, những bang phái ký Thái Bình Ước với triều đình được coi là danh môn chính phái, thuộc về Thái Bình minh. Còn những phái từ chối không ký Thái Bình Ước thì bị coi là tà ma ngoại đạo, đều bị tru diệt cả. Những tản khách giang hồ như chúng ta, bình thường tự do tự tại quen rồi, không muốn chịu sự câu thúc của minh ước gì cả. Còn về Tiểu Xà, ông ta thường ngày ở cùng với rắn độc, được tặng cho danh hiệu là Xà Vương, từ lâu đã bị triều đình gạt ra ngoài hàng ngũ chính đạo…”

“Trong buổi loạn thế này, các vị cũng hiểu, chỉ đơn độc dựa vào sức mình thực sự là không thể sống nổi.” Khương Hằng nói chen vào. “Cho nên, những kẻ giang hồ tản nhân mới dựng lên một liên minh võ nhân, đặt tên là Thương Thiên, để giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau đối phó với sự tàn sát của triều đình. Còn những người từ chối ký Thái Bình Ước, không ngần ngại bỏ cả môn phái mà chạy như Bách Lý Hình, chỉ có đi theo Thương Thiên mới có thể tránh khỏi bị quan binh và môn phái truy sát.”

“Đúng vậy!” Hà Nhân gật đầu, cười nói. “Tiểu huynh đệ, cậu là hậu nhân của Tùy gia thương, phải chịu nỗi khổ sở vì Thái Bình Ước, chi bằng hãy gia nhập Thương Thiên, như thế chẳng những có thể bảo vệ được tính mạng của hai người mà còn có thể bái sư học nghệ, luyện được võ công thượng thừa. Không biết cậu có hứng thú ấy không?”

Khương Hằng chống mạnh cán thương xuống đất, quả quyết cự tuyệt: “Không cần, Khương Hằng ta sinh ra ở Kỳ Sơn, lớn lên ở Kỳ Sơn, sống là đệ tử Tùy gia thương, chết là ma Tùy gia thương. Đời này kiếp này, ta chỉ có một vị sư phụ, nhất định không bái sư theo học một sư phụ khác!”

“Tiểu tử giỏi lắm, rất có chí khí.” Hà Nhân cười nói.

Tùy Vân Hy đứng bên cạnh, nãy giờ vẫn đang suy nghĩ, cô nhìn Hà Nhân đang nhếch miệng cười, lại nhìn Sái Tiểu Xà đang trầm ngâm không nói, rồi nhìn sang Bách Lý Hình vẻ mặt đầy giận dữ, bỗng nghi hoặc nói: “Hà tiền bối, nghe ông nói thì Thương Thiên giúp cho những võ nhân không đồng ý ký Thái Bình Ước có được một chốn yên thân, ấy thực là điều may mắn cho võ nhân. Nhưng ông làm sao biết được những người chạy đến theo mình có thực sự là người tốt hay không? Ví như hắn ta…”

Vân Hy chỉ vào Bách Lý Hình, nói tiếp: “Hắn hạ độc làm trọng thương Hạ đại ca, lại cấu kết với Thất Phách đường, thiếu chút nữa làm bọn vãn bối mất mạng, giờ đây hắn lại lừa dối các ông, nói rằng Hạ đại ca vu khống hãm hại hắn, đúng là dối trá tột cùng. Người như vậy, các ông cũng giúp sao?”

“Tiểu quỷ ngươi nói bừa gì vậy? Chuyện của Vân Tiêu cổ lâu ta mà đến lượt một con nhãi như ngươi nói chen vào ư?” Bách Lý Hình giận dữ nói. “Tên tiểu súc sinh Hạ Thiên Thu đó bội tín phụ nghĩa, bỏ cả oán thù trăm năm của Vân Tiêu cổ lâu không thèm ngó ngàng, đúng là ta muốn lấy mạng hắn, nhưng chưa từng hạ độc, càng không có chuyện cấu kết với Thất Phách đường gì đó!”

Thấy hai bên mỗi người mỗi ý, Hà Nhân làm hòa nói: “Bách Lý huynh, xin chớ nóng giận, rốt cuộc là chuyện gì, cứ nói cho rõ ràng.”

Bách Lý Hình hít một hơi sâu, dường muốn nén cơn giận dữ lại, rồi mới nói tiếp: “Vân Tiêu cổ lâu chúng ta vốn là một nhánh của Xung Tiêu kiếm phái. Mấy chục năm trước, Xung Tiêu kiếm phái nổi danh trên giang hồ, một là nhờ kỹ thuật đánh kiếm khiến mọi người phải kinh sợ, hai là nhờ thuật đúc rèn có một không hai. Khi ấy, Xung Tiêu kiếm phái người đông thế mạnh, nói về thực lực có thể coi là môn phái hàng đầu trong giang hồ. Nhưng chưởng môn của phái là Hồng Mông đạo nhân bình sinh chỉ có ba đệ tử chân truyền. Đại sư huynh Thẩm Hoa Đình căn cốt rất tốt, lại có được chân truyền kiếm thuật của Hồng Mông đạo nhân, là kiếm khách nhất nhì trên giang hồ, cực kỳ nổi tiếng. Nhị sư huynh là Trịnh Lý, phàm việc gì nhìn qua đều không quên, vô cùng si mê thuật rèn đúc, một lòng muốn đúc ra loại thần binh lợi khí như Can Tương, Mạc Tà. Tam sư đệ là Hạ Lăng Tiêu, tuy về kiếm thuật và thuật rèn đúc đều không xuất chúng bằng hai vị sư huynh, nhưng là người khiêm hòa, giỏi âm luật, đã đem kiếm thuật và âm luật kết hợp với nhau, tạo ra một cây kỳ kiếm, vẻ ngoài trông tựa cây cổ cầm, nhưng bên trong lại ngầm giấu một thanh bảo kiếm, đặt tên là Cầm Tâm Kiếm Phách.

Khi ấy, báu vật trấn phái của Xung Tiêu kiếm phái là Xung Tiêu kiếm – một thanh bảo kiếm do Hồng Mông đạo nhân tự tay đúc nên – đã bị lấy trộm mất khỏi Tàng Binh lâu của môn phái. Hồng Mông đạo nhân từng nói rõ rằng, ba người đệ tử đều có sở trường riêng, ai có thể lấy lại Xung Tiêu kiếm bị mất thì sẽ là chưởng môn đời kế tiếp của Xung Tiêu kiếm phái. Thế là, ba người đệ tử liền thi triển tài năng của mình, đi khắp giang hồ tìm xem Xung Tiêu kiếm đang ở đâu, nhưng trước sau vẫn không thể tìm được. Nhị sư huynh Trịnh Lý vì muốn đoạt lấy ngôi chưởng môn nên dùng bản lĩnh xem qua không quên của mình, dự định dựa vào hình dáng bề ngoài của Xung Tiêu kiếm mà làm giả ra một cây kiếm tương tự. Nhưng không biết vì sao, bất kể ông có rèn đúc thế nào cây kiếm giả ấy trước sau vẫn có vấn đề. Trịnh Lý si mê việc đúc kiếm, trong lúc nóng lòng, lại muốn bắt chước cổ nhân, thế là đã đem người sống ra tế kiếm. Sau việc ấy, tuy kiếm giả đã được đúc xong, cũng không khác gì kiếm thật, nhưng chuyện Trịnh Lý đem người tế kiếm đã bị bại lộ. Hồng Mông đạo nhân nổi cơn thịnh nộ, cầm cây kiếm giả ném xuống dưới núi và đuổi Trịnh Lý ra khỏi tông môn. Sau khi bị đuổi khỏi Xung Tiêu kiếm phái, Trịnh Lý tự mình lập ra một phái, lấy tên là Bất Phá các. Bất Phá các không chỉ đúc kiếm, còn chuyên tâm nghiên cứu về ám khí và máy móc để mong tìm được vũ khí có khả năng sát thương lớn hơn, trên các thứ binh khí thường tẩm độc, hiện nay đã trở thành một tà phái trên giang hồ mà ai nghe thấy cũng phải khiếp sợ.

Trăng sáng cố hương – Lại Nhĩ [Chương 3.5]

Kẻ mặc áo tơi ấy quả thực chính là Thủy Quỷ Hà Nhân, ông ta vội đưa tay ra ngăn Bách Lý Hình không cho quỳ lạy, liên tục nói: “Chớ có khách khí. Một khi Bách Lý huynh gia nhập Thương Thiên, vậy thì chúng ta chính là huynh đệ một nhà. Trời xanh ở trên, võ nhân trong thiên hạ nên nâng đỡ lẫn nhau, cùng vượt qua kiếp nạn Thái Bình này.”

Nghe thấy hai chữ “Thái Bình”, Bách Lý Hình nghiến răng giận dữ nói: “Thiên hạ thái bình gì chứ, ta thấy phải là thiên hạ đại loạn mới đúng! Ta không thể ngờ được rằng Vân Tiêu cổ lâu với cơ nghiệp mấy trăm năm lại đi ký vào Thái Bình Ước, lại còn thêm cái Thái Bình minh chết tiệt gì đó nữa! Ta đưa ra ý kiến khác, hắn liền vu khống hãm hại ta, nói ta cấu kết tà phái, từng có ý đồ lấy mạng hắn. Sư môn không ngờ lại nảy ra tên bại hoại này, nhất định có ngày ta phải giết chết Hạ Thiên Thu, chỉnh đốn lại thể thống cho sư môn!”

Tùy Vân Hy đang nấp dưới con rạch, nghe thấy Bách Lý Hình đòi giết Hạ Thiên Thu, lập tức không nhịn được nữa. Mặc cho Khương Hằng lôi lại, cô vẫn đứng vụt dậy, chỉ tay vào Bách Lý Hình nói: “Ngươi nói dối! Khi xưa ngươi cấu kết với yêu nhân của Thất Phách đường, chẳng những làm Hạ đại ca bị thương, hại chết đại phu, còn vu oan giá họa cho Hạ đại ca, nói huynh ấy tàn hại trăm họ, lúc ấy chính ta chứng kiến!”

Không thể ngờ rằng lại có một tiểu cô nương ẩn nấp ở đây, Hà Nhân và Bách Lý Hình đều kinh ngạc. Bách Lý Hình trợn mắt, quát to: “Con tiểu quỷ này ở đâu ra vậy, dám nói năng lung tung!”

Ông ta chưa nói dứt câu, liền thấy trước mắt có một bóng đen vút qua. Một thanh niên tàn phế chỉ còn một tay, cầm thương chắn trước tiểu cô nương để bảo vệ, lạnh lùng nhìn ông ta. “Thà chết không theo Thái Bình Ước, không về hùa với quan phủ, ngươi cũng có thể coi là có chí khí của kẻ võ nhân. Chỉ có điều để đạt được mục đích của mình, ngươi không ngần ngại làm liên lụy tới người vô tội, lại còn chối bỏ sạch tội trạng của mình, xem ra ngươi cũng chỉ là kẻ tiểu nhân hèn nhát mà thôi.”

Bách Lý Hình nghe thế thì giận sôi lên, rút kiếm định liều mình với Khương Hằng. Đâu ngờ Hà Nhân đã đưa cây gậy trúc trong tay ra ngăn giữa hai người, cười nói: “Ồ, tiểu tử, ngươi dùng thương ư? Hãy cho ta xem thử một chút nào!”

Nói xong, Hà Nhân hất cổ tay, cây gậy trúc trong tay lập tức vây bọc lấy trường thương của Khương Hằng, không rời khỏi đầu mũi thương của y. Khương Hằng đề khí vận công, cánh tay duy nhất ấn xuống, thoát mạnh ra khỏi sự bao vây của đối thủ.

“Ồ, công lực cơ bản vững lắm!”

Hà Nhân cười khen ngợi một câu, lập tức lùi lại phía sau một bước, thân hình hơi rướn lên, tựa như đại bàng xòe cánh bay về phía sau. Cùng lúc ấy, ông ta xuất thủ nhanh như chớp, cây gậy trúc chớp mắt điểm đúng giữa trán Khương Hằng…

“Dương bạch!”

Hà Nhân quát lên, đồng thời gậy trúc đã điểm đúng huyệt Dương bạch trên lông mày trước trán Khương Hằng. Khương Hằng hất thương cản lại, nhưng ra tay lại chậm hơn một nhịp. Mà lúc này chiêu tiếp theo của Hà Nhân đã lại tới…

“Trung phủ!”

Nghe thấy câu ấy, Khương Hằng không kịp nghĩ ngợi gì, cầm ngang cây thương cản lại, nhưng vẫn chậm hơn một bước, bị Hà Nhân đánh đúng huyệt Trung phủ bên ngực trái. Chỉ thấy Hà Nhân lại biến chiêu, nghiêng người lách tới, cây gậy trúc trong tay đâm nhanh vào bụng dưới Khương Hằng…

“Ngoại lăng!”

Liên tiếp bị Hà Nhân đùa bỡn hai bận, Khương Hằng nhíu mày, trong lòng đã có tính toán. Nhìn chiêu thức của Hà Nhân sáp tới, lần này Khương Hằng không hề tránh né, cũng không ngăn cản, y xông thẳng tới phía trước, lấy thân thể mình đón đòn đánh của Hà Nhân, cùng lúc phải chịu đòn đánh ấy, cây trường thương trong tay lao mạnh tới, tua đỏ phất qua, thương bạc đâm thẳng về phía mắt trái Hà Nhân!

Hà Nhân hốt hoảng lùi lại phía sau, thu thế tấn công về. Dưới ánh trăng soi sáng, ông ta nhìn kỹ Khương Hằng một lượt từ trên xuống dưới, kinh ngạc nói: “Ôi chao, tiểu tử ngươi được lắm! Tùy gia thương tuy nổi tiếng là mạnh mẽ cứng rắn, nhưng cũng không có chiêu thức nào thuộc loại liều mạng như thế. Cách đánh này ngươi học được từ đâu vậy?”

Khương Hằng thu thương đứng yên, chau mày nghi hoặc hỏi: “Ngươi nhận ra Tùy gia thương ư?”

“Ha ha, thực ra ta cũng không hiểu nhiều, nhưng trong Thương Thiên có một lão già võ công tuy không cao lắm, nhưng lại vô cùng si mê võ thuật giang hồ, ta đã đọc qua một số sách của lão.” Hà Nhân cười đáp, nhưng lập tức ông ta lại ngưng cười, chắp tay hướng về phía Khương Hằng nói: “Nghe nói tám năm trước, Tùy gia thương vì cự tuyệt ký Thái Bình Ước, liều chết chống cự, tất cả lớn nhỏ từ trên xuống dưới đã bị quan phủ giết hết. Tiểu huynh đệ xem ra chính là hậu nhân của Tùy gia thương, ta thất kính rồi!”

“Hừ, cái gì mà Trung Nguyên đệ nhất thương, chẳng qua chỉ là một tiểu bang tiểu phái, luận về võ công, so với Vân Tiêu cổ lâu chúng ta chỉ như đom đóm so với ánh trăng rằm.” Khi nãy bị thanh niên mắng một câu là “tiểu nhân hèn nhát”, Bách Lý Hình vẫn còn giận chưa nguôi, bây giờ chỉ lạnh nhạt hừ một tiếng.

Nghe ông ta nói vậy, Khương Hằng cầm ngang cây thương đứng lên. Thấy hai người lại định động thủ, Hà Nhân vội vàng chặn ở giữa, khuyên bảo: “Ôi ôi, nghe ta nói này, chúng ta đều là những kẻ không may phải chịu khổ sở vì Thái Bình Ước, có thể buông đao thương xuống, nói chuyện đầu đuôi trước đã được không?”

MƯỜI NĂM THƯƠNG NHỚ [Chương 8.3]

“Cháu gái nói thử xem.” Ông Ngôn Soái nhìn A Hoành hồi lâu, thấy cô chỉ ngồi lặng lẽ, bèn thử trêu cô bé.

A Hoành liền ngẩng lên, lí nhí nói: “Vỏ quýt ạ.”

Ánh mắt mọi người lập tức đổ dồn về phía chú Lý. Chú Lý cười càng hiền từ hơn, các nếp nhăn ở đuôi mắt cũng hiện rõ. “A Hoành nói đúng rồi. Thịt lợn mua hôm nay hơi mỡ, tôi sợ cậu Ngôn Hi kén ăn nên băm ít vỏ quýt vào, vừa giảm độ ngấy vừa đỡ tanh, nhất cử lưỡng tiện.”

“Á! Mẹ Lý, mẹ biết rõ là con không ăn được thịt mỡ mà còn hành con thế ư! Con phải trừ lương của mẹ mới được!

Trừ ngay! Trừ ngay lập tức!” Ngôn Hi trề môi, trêu chú Lý, anh vẫn thường trêu chọc, gọi chú là mẹ Lý như vậy.

“Ồ, thiếu gia không phải lo, lương của tôi không phải do thiếu gia quản.” Chú Lý vui vẻ nói.

Vì thời chiến tranh chú lập được công lao to lớn nên được nhận trợ cấp đặc biệt của Quốc vụ viện, đến nhà họ Ngôn làm giúp việc hoàn toàn là nể mặt lãnh đạo cũ của mình mà thôi.

Ngôn Hi cảm thấy hiếu thuận với “bảo mẫu” trong nhà là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Trung Hoa nên đành im miệng.

A Hoành đã no, nhưng ông Ngôn nhiệt tình mời nên đành bắt chước Tư Hoán, ăn từng miếng nhỏ, vừa lịch sự vừa giết thời gian.

Qua làn khói nghi ngút, cô nhìn thấy Ngôn Hi đang ngoẹo đầu trên xô pha xem ti vi, mái tóc đen che trước trán, chiếc áo đỏ mềm mại, trông bắt mắt vô cùng.

A Hoành chưa từng gặp cha mẹ Ngôn Hi. Lúc đầu cô còn tưởng họ bận công chuyện, về sau nghe ông nội và mẹ nói chuyện với nhau, dần dần cô đã hiểu ra vấn đề.

Hóa ra cha mẹ Ngôn Hi đều là tham tán đang đi sứ ở Mỹ, khi Ngôn Hi chưa đầy một tuổi, họ đã ra nước ngoài.

Trước đó, ông nội nói với mẹ thế này: “Tiểu Hi khá tự do, vô tổ chức, lại không có cha mẹ ở bên, Ngôn Soái cũng không phải là người biết cách nuôi dạy trẻ, được như thế cũng là tốt rồi. Tư Hoán nhà mình chơi với nó, tốt thì tốt đấy nhưng không nên học cái tính cách đó của nó.”

Không hiểu tại sao A Hoành nghe mà cũng thấy hơi khó chịu. Cô lặng lẽ lên phòng, miệt mài làm đề tiếng Anh. Nói ra cũng buồn cười, A Hoành nói tiếng phổ thông không sõi nhưng tiếng Anh lại đọc khá lưu loát, như lời Tư Hoán nói thì là “rất có tiềm năng bán nước”.

Tư Hoán có một người bạn chơi thân từ nhỏ, họ Lục, đang du học ở Vienna, khi gọi điện thoại, hai người thường dùng tiếng Anh để nói chuyện, tranh thủ luyện speaking luôn.

Một lần, khi điện thoại đổ chuông, đúng lúc Tư Hoán đang bận việc nên không thể nhấc máy, bèn nhờ A Hoành nghe hộ. A Hoành ấp úng hồi lâu mà không nói được từ “xin chào”, đối phương lại hỏi: “Siwan ?”

“Siwan has something at hand, this is his sisterplease wait a  minute”1

A Hoành khá xúc động, thầm nghĩ đây là lần đầu tiên cô nói năng gãy gọn như vậy kể từ khi đặt chân đến thành phố B.

Tư Hoán nhìn thấy vẻ mặt đó của A Hoành thì liền cười rũ rượi.

“Nhĩ Nhĩ à?” Đầu bên kia vang lên tiếng phổ thông bằng một giọng rất ấm.

A Hoành im lặng, hồi lâu mới trả lời đối phương: “Another, another…”

Tư Hoán nghe rồi ngẩn tò te nhìn cô. Một lát sau, anh lại nhìn A Hoành, mỉm cười.

Ờ, một người khác ư?

Hình như không hẳn là hoàn toàn không thể chấp nhận.

Trăng sáng cố hương – Lại Nhĩ [Chương 3.4]

Khương Hằng vẫn không đáp lời, chỉ tức giận trừng mắt nhìn gã trưởng quan kia. Đêm năm xưa ở Kỳ Sơn, Vân Hy còn nhỏ, lại bất ngờ gặp phải sự biến kinh hoàng, rất nhiều người, rất nhiều việc cô đã không còn nhớ được nữa. Nhưng Khương Hằng thì vẫn nhớ rõ như in, gã trưởng quan kia chính là một thuộc hạ đi theo Triệu Hãn, tìm thấy hai người bọn họ ở giữa nơi rừng núi năm xưa. Chính y đã đoạt lấy cây trường đao từ bên lưng người này, tự chặt đứt tay mình. Đã cách tám năm rồi, nhưng cảnh tượng khi xưa vẫn còn hiện rõ trước mắt. Những tên lính có mặt hôm ấy, mỗi một khuôn mặt, mỗi một món nợ máu, Khương Hằng đều thầm ghi nhớ hết. Suốt tám năm nay, Khương Hằng không thời khắc nào không nhắc nhở chính mình, phải ghi nhớ diện mục của từng kẻ thù một, rốt cuộc sẽ có ngày, y phải giết hết bọn chúng để báo mối thù sâu nặng!

Rụt bàn tay đang bóp chặt vai Vân Hy lại, Khương Hằng đưa cánh tay duy nhất lần tìm cây trường thương sau lưng, nắm chắc cán trong tay. Lúc này, y đã không còn để ý tới chuyện sống chết của Bách Lý Hình nữa, chỉ trông thấy kẻ thù mà thôi.

Dưới làn mưa tên, Bách Lý Hình bị trúng liền mấy mũi trên vai, trên lưng, máu chảy như tắm. Ông ta cố gắng sức, dùng cây trường kiếm chỗng đỡ cho thân thể khỏi bị đổ gục trước mắt quan binh. Gã trưởng quan kia lại giơ tay lần nữa, quân lính lắp tên kéo cung, lượt bắn thứ hai sắp được thực hiện thì bỗng nghe loáng thoáng từ phía xa vẳng lại tiếng thổi sáo.

Tiếng sáo chợt xa chợt gần, không giống những khúc nhạc bình thường, chẳng những rất mơ hồ mà còn ca chẳng phải ca, điệu chẳng phải điệu. Trong đêm khuya sương mờ thế này, nó vô cùng kỳ lạ. Cùng với tiếng sáo, trong những lùm cỏ dưới đất cũng chợt vang lên những tiếng xào xào xạc xạc.

Bỗng nhiên, trong đám quân lính chợt có tiếng kêu thét thảm thiết. Tiếp ngay sau đó, đội ngũ bỗng trở nên rối loạn, lúc lúc lại vang lên một loạt những tiếng kêu kinh hãi: “Rắn! Có rắn độc!”

Dưới ánh trăng, chỉ thấy cỏ khô lất phất, vang lên những tiếng sàn sạt. Từng đàn những con rắn lốm đốm hoa văn, đi qua đi lại giữa các bụi cỏ, thi thoảng lại thè ra thụt vào cái lưỡi chẻ đôi, cùng nhau kéo về phía đội quan binh.

Đám lính vội vàng vung đao chém rắn, nhưng bầy rắn tựa hồ có trí khôn, chẳng hề sợ sệt, từng con một quấn chặt lấy chân đám lính, bò lên người và chân chúng.

Tiếng sáo bỗng vút lên một âm điệu cao hơn. Lập tức đàn rắn há miệng, nhe cái răng nanh chứa nọc độc, nhắm thẳng cổ toán quan quân mà bổ xuống.

Tất cả mọi người dường như đã sắp bỏ mạng trong miệng rắn, bỗng nhiên tiếng sáo ấy lại biến đổi, ngân vang dài hơn. Đàn rắn tức thì ngừng hết động tác lại. Hơn trăm con rắn độc như đang chờ đợi mệnh lệnh từ ai đó, nhe hàm răng nanh nhọn hoắt kề sát tận cổ đám quan binh, nhưng lại chưa cắn thật.

“Cao nhân phương nào, xin hãy ra mặt!”

Gã trưởng quan lấy can đảm, kêu to một câu. Chỉ nghe thấy trên cánh đồng rộng vẳng lại tiếng cười ha hả. “Ha ha, danh hiệu của tiểu gia ta, há lại có thể tùy tiện nói cho lũ rác rưởi các ngươi biết ư?”

Mọi người lập tức nhìn theo hướng tiếng cười vọng lại, chỉ thấy dưới ánh trăng, trên cây cổ thụ xù xì, có hai bóng người đang đứng. Một người thấp hơn một chút, lưng đeo giỏ tre, tay cầm một cây sáo trúc, kề sát bên miệng, đang thổi một khúc nhạc kỳ dị. Đàn rắn trăm con kia có lẽ nghe theo sự chỉ huy của người đó.

Đứng cạnh người đang thổi sáo là một người dáng vóc cao hơn, mình khoác áo tơi, đầu đội nón lá, tay cầm một cần trúc dài. Vành nón rộng che khuất quá nửa khuôn mặt của người ấy, nhưng không che được cái nhếch mép bỡn cợt trên miệng ông ta. Chỉ thấy ông ta cười lớn, bảo: “Biết điều thì mau lui binh để Bách Lý Hình lại đó! Nếu không, vị hảo hữu này của ta nổi giận lên, thổi sai điệu, thì chớ trách những tiểu bằng hữu không chân của bọn ta đại khai sát giới đấy!”

Dưới sự uy hiếp lộ liễu ấy, gã trưởng quan mặt biến sắc. Hắn lặng im hồi lâu, rồi bỗng chắp tay hướng về phía người mặc áo tơi và người thổi sáo, nói: “Thường nghe trong Thương Thiên có rất nhiều kỳ nhân, cao thủ, hôm nay được thấy, quả không tầm thường. Xin được cáo từ ở đây.”

Nói xong, hắn quay sang nhìn đám thuộc hạ của mình, hạ giọng nói: “Bỏ vũ khí xuống, rút lui.”

Nghe được mệnh lệnh của hắn, đám quân lính bỏ hết đao kiếm trên tay xuống. Còn hàng trăm con rắn kia, dưới sự chỉ huy của tiếng sáo cũng rút lui khỏi người địch thủ, trườn vào trong bụi cỏ, ngóc cao cái đầu hình tam giác, cảnh giác quan sát đám quan binh, thỉnh thoảng lại thè ra thụt vào cái lưỡi nhỏ. Cuối cùng tất cả quan binh đều lui đi hết, năm tên kiếm khách của Vân Tiêu cổ lâu cũng khiêng thi thể của sư huynh mình, cùng rút lui theo.

Không bao lâu sau, trên cánh đồng rộng chỉ còn lại một mình Bách Lý Hình đứng chống kiếm. Còn người mặc áo tơi và người thổi sáo kia thì tung mình nhảy từ trên cây xuống, đi đến bên cạnh Bách Lý Hình. Người mặc áo tơi đưa tay phải điểm nhanh, phong bế đại huyệt mấy chỗ của Bách Lý Hình lại. Bách Lý Hình điều hòa nhịp thở hồi lâu, đợi lúc bình thường trở lại mới chắp tay hướng về phía hai người, nói: “Đa tạ nhị vị ra tay tương cứu, xin cho hay quý tính đại danh!”

“Tiểu gia ta họ Hà, tên chỉ một chữ Nhân, các ngươi hay nói “người tới là ai”, ấy chính là nói tới tiểu gia ta đó[1].” Kẻ mặc áo tơi cười nói, lại vỗ vai người thổi sáo đứng bên cạnh mình, ung dung giới thiệu: “Vị này, mọi người đều gọi là Sái Tiểu Xà.”

Sái Tiểu Xà không nói gì, chỉ bỏ cây sáo trên môi xuống, khẽ gật đầu, coi như chào hỏi. Không có tiếng sáo chỉ huy, lũ rắn dưới đất dần bò đi, chỉ còn lại một con rắn cạp nong thuận theo ống quần của Sái Tiểu Xà bò lên, tự thả mình rơi vào chiếc giỏ đeo sau lưng ông ta.

“Hóa ra là Thủy Quỷ và Xà Vương, ngưỡng mộ đã lâu.” Bách Lý Hình lại chắp tay một lần nữa. “Hôm nay Bách Lý Hình giữ được cái mạng này, tất cả là nhờ có nhị vị, đại ân không biết nói sao cảm tạ, xin nhận của tại hạ một lạy.”

[1] Trong tiếng Hán, nguyên văn câu “người tới là ai” là “lai giả hà nhân”, hai chữ “hà nhân” chính là tên của người này.

 

MƯỜI NĂM THƯƠNG NHỚ [Chương 8.2]

“Cảm ơn anh.” Lòng bàn tay cô rịn đầy mồ hôi, cô cảm thấy như trút được một gánh nặng ngàn cân.

“Ờ.” Ngôn Hi không có thời gian để tâm đến cô.

Tư Hoán nhìn Ngôn Hi với ánh mắt sửng sốt, nhưng anh vẫn cười. Ngôn Hi đã quyết định như vậy, anh cũng chẳng phản đối làm gì.

“Ăn sủi cảo thôi các con!” Một người đàn ông trung niên khá mập và thấp, đeo tạp dề và bưng sủi cảo đi ra, cười híp mắt nhìn đám thanh niên trong nhà.

“Tiểu Hi, mang ra phòng ăn mà ăn, lom khom ở đây còn ra thể thống gì nữa!” Người đó nhìn Ngôn Hi và đá anh một cái.

“Á, chú Lý, lại bắt chú phải bê ra tận đây, thật ngại quá.” Tư Hoán bước đến và lịch sự đón lấy đĩa sủi cảo.

“Đây là A Hoành có phải không nhỉ?” Người đó chăm chú nhìn A Hoành.

“A Hoành, đây là chú Lý, trợ lí của ông Ngôn.” Tư Hoán nói nhỏ với A Hoành.

“Cháu chào chú Lý!” A Hoành nhỏ giọng chào.

“Chào cháu!” Người đó gật đầu, nét mặt lộ rõ vẻ phấn khởi, nước mắt như muốn trào ra. Sau đó, ông bước đến trước mặt A Hoành rồi vuốt nhẹ tóc cô, nhẹ nhàng nói: “Con ngoan, về được nhà là tốt rồi, chắc con phải chịu nhiều khổ cực lắm nhỉ.”

A Hoành hơi sững lại, Tư Hoán cũng sững sờ, chỉ có Ngôn Hi tiếp tục cúi đầu chiến đấu với bát sủi cảo.

“Anh Lý đâu nhỉ!” Tiếng ông Ngôn Soái sang sảng từ bàn ăn vọng ra.

“Có mặt!” Chú Lý giơ tay chào theo kiểu nhà binh, giọng cũng rất dứt khoát.

“A Hoành, ăn nhiều lên.” Bà Trương nhìn cô nhắc nhở. “Bà và chú Lý làm đấy, thơm lắm!”

A Hoành gật đầu lia lịa.

“Mọi người có đoán ra loại nhân nào không?” Chú Lý cười tủm tỉm, từ trước đến giờ chú luôn là hoạt náo viên của cả nhà.

“Có tôm nõn, thịt lợn, hải sâm.” Tư Hoán lấy răng miết nhẹ phần nhân ở đầu lưỡi, đôi má lúm đồng tiền trông rất duyên.

“Bí xanh, măng.” Cụ Ôn lên tiếng.

“Bột gừng, hành băm, rượu, mì chính, nước xương hầm.” Bà Uẩn Nghi nếm phần nước rồi lên tiếng.

“Vẫn còn thiếu.” Chú Lý cười.

Mọi người cố gắng nhai thật kĩ rồi đưa mắt nhìn nhau, ánh mắt lộ rõ vẻ thắc mắc. Còn cái gì nữa nhỉ? Những người có mặt ở đây, người nào chẳng ăn đủ sơn hào hải vị rồi, một người không đoán được đã đành, chẳng lẽ tất cả đều không đoán được.